Diễn đàn cơ khí động lực - Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghiệp

Chào mừng các bạn đến với diễn đàn cơ khí động lực trường Đại học kỹ thuật công nghiệp

Join the forum, it's quick and easy

Diễn đàn cơ khí động lực - Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghiệp

Chào mừng các bạn đến với diễn đàn cơ khí động lực trường Đại học kỹ thuật công nghiệp

Diễn đàn cơ khí động lực - Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghiệp

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Diễn đàn cơ khí động lực - Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghiệp

COKHIDONGLUCTNUT.TK

May 2024

MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Calendar Calendar

Statistics

Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 1970 in 353 subjects

Diễn Đàn hiện có 379 thành viên

Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: leminhdat

RSS feeds


Yahoo! 
MSN 
AOL 
Netvibes 
Bloglines 

4 posters

    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh

    Lei_one
    Lei_one
    Trung sỹ
    Trung sỹ


    Tổng số bài gửi : 43
    Reputation : 0
    Join date : 31/12/2010
    Age : 38
    Đến từ : BG

    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh Empty Luyện kỹ năng nghe tiếng anh

    Bài gửi by Lei_one Sun Jan 02, 2011 12:13 am

    Nghe một ngôn
    ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ quả là khó khăn đối với mỗi người. Và với chúng
    ta thì việc nghe tiếng anh cũng không phải là ngoại lệ. Phần lớn mọi người đều
    có thể học ngữ pháp tiếng anh khá dễ dàng, tuy nhiên việ nghe tiếng anh thì là
    cả một vấn đề. Nếu không có phương pháp luyện nghe thích hợp thì chúng ta khó
    có thể nghe và giao tiếp tốt bằng tiếng anh được.

    Tôi đã đọc được bài biết dưới đây và thấy nó rất
    hữu ích, xin mạn phép post lên đây cho mọi người cùng tham khảo:

    Một trong những trở ngại lớn nhất của chúng ta khi
    học một ngoại ngữ ấy là chúng ta quá… thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm.

    Quá thông minh: vì mình không thể nào chấp nhận nghe một câu mà mình không
    hiểu: cần phải hiểu một câu nói gì trước khi nghe tiếp câu thứ hai, nếu không
    thì mình không buồn nghe tiếp.

    Quá kinh nghiệm: Cuộc đời đã dạy ta không nghe những gì người khác nói mà chỉ
    hiểu những gì mà nội dung chuyển tải. Nếu không hiểu nội dung, chúng ta không
    thể lặp lại lời người kia. Cũng vì thế mà - trong giai đoạn đầu học ngoại ngữ -
    mỗi lần nghe một câu tiếng Anh thì trong đầu phải dịch ra được tiếng Việt thì
    mới yên tâm, bằng không thì … câu ấy không có nghĩa.

    Thế nhưng, đấy là lối học sinh ngữ ngược chiều. Tôi biết được 6 ngôn ngữ, trong
    đó có ba ngôn ngữ thành thạo nghe nói đọc viết: Việt - Anh - Pháp, và tôi thấy
    rằng trong các ngôn ngữ tôi biết thì, một cách khách quan, nghe và nói tiếng
    Việt là khó nhất (vì ở phương tây, không có ngôn ngữ nào mà mình đổi cao độ của
    một từ thì ý nghĩa từ ấy lại thay đổi: ma - má - mà - mạ - mã - mả). Nhưng các
    bạn ở forum này, cũng như tôi, đều không có vấn đề gì cả với cái sinh ngữ khó
    vào bậc nhất ấy!

    Tuy nhiên, những thầy cô dạy chúng ta nghe nói tiếng Việt chẳng phải là những
    vị chuyên viên ngôn ngữ như các thầy cô ngoại ngữ mà ta học tại các trường.
    Thầy dạy tiếng Việt chúng ta là tất cả những người quanh ta từ ngày ta ra đời:
    cha mẹ, anh chị, hàng xóm, bạn bè… nghĩa là đại đa số những người chưa có một
    giờ sư phạm nào cả, thậm chí không có một khái niệm nào về văn phạm tiếng Việt.
    Thế mà ta nghe tiếng Việt thoải mái và nói như sáo. Còn tiếng Anh thì không thể
    như thế được. Ấy là vì đối với tiếng Việt, chúng ta học theo tiến trình tự
    nhiên, còn ngoại ngữ thì ta học theo tiến trình phản tự nhiên.

    Từ lúc sinh ra chúng ta đã NGHE mọi người nói tiếng Việt chung quanh (mà chẳng
    bao giờ ta phản đối: "tôi chẳng hiểu gì cả, đừng nói nữa"! Mới sinh
    thì biết gì mà hiểu và phản đối!). Sau một thời gian dài từ 9 tháng đến 1 năm,
    ta mới NÓI những tiếng nói đầu tiên (từng chữ một), mà không hiểu mình nói gì.
    Vài năm sau vào lớp mẫu giáo mới học ĐỌC, rồi vào lớp 1 (sáu năm sau khi bắt
    đầu nghe) mới tập VIẾT… Lúc bấy giờ, dù chưa biết viết thì mình đã nghe đưọc
    tất cả những gì người lớn nói rồi (kể cả điều mình chưa hiểu). Như vậy, tiến trình
    học tiếng Việt của chúng ta là Nghe - Nói - Đọc - Viết. Giai đoạn dài nhất là
    nghe và nói, rồi sau đó từ vựng tự thêm vào mà ta không bao giờ bỏ thời gian
    học từ ngữ. Và ngữ pháp (hay văn phạm) thì đến cấp 2 mới học qua loa, mà khi
    xong trung học thì ta đã quên hết 90% rồi.

    Nhưng tiến trình ta học tiếng Anh (hay bất cứ ngoại ngữ nào) thì hoàn toàn
    ngược lại.

    Thử nhìn lại xem: Trước tiên là viết một số chữ và chua thêm nghĩa tiếng Việt
    nếu cần. Và kể từ đó, học càng nhiều từ vựng càng tốt, kế đến là học văn phạm,
    rồi lấy từ vựng ráp vào cho đúng với văn phạm mà VIẾT thành câu! Rồi loay hoay
    sửa cho đúng luật! Sau đó thì tập ĐỌC các chữ ấy trúng được chừng nào hay chừng
    ấy, và nhiều khi lại đọc một âm tiếng Anh bằng một âm tiếng Việt! (ví dụ fire,
    fight, five, file… đều được đọc là ‘phai’ ). Sau đó mới tới giai đoạn NÓI, mà
    ‘nói’ đây có nghĩa là Đọc Lớn Tiếng những câu mình viết trong đầu mình, mà
    không thắc mắc người đối thoại có hiểu 'message' của mình hay không vì mình chỉ
    lo là nói có sai văn phạm hay không. Lúc bấy giờ mới khám phá rằng những câu
    mình viết thì ai cũng hiểu, như khi mình nói thì chỉ có mình và … Thượng Đế
    hiểu thôi, còn người bản xứ (tiếng Anh) thì ‘huh - huh’ dài cổ như cổ cò! Thế
    là học nói bằng cách sửa đổi phát âm những từ nào chưa chuẩn cho đến khi người
    khác có thể hiểu được.

    Sau thời gian dài thật dài, mình khám phá rằng mình từng biết tiếng Anh, và nói
    ra thì người khác hiểu tàm tạm, nhưng khi họ nói thì mình không nghe được gì cả
    (nghĩa là nghe không hiểu gì cả). Lúc bấy giờ mới tập NGHE, và rồi đành bỏ cuộc
    vì cố gắng mấy cũng không hiểu được những gì người ta nói.

    Vấn đề là ở đó: chúng ta đã học tiếng Anh ngược với tiến trình tự nhiên, vì quá
    thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm. Tiến trình ấy là Viết - Đọc - Nói -
    Nghe!

    Vì thế, muốn nghe và nói tiếng Anh, chuyện đầu tiên là phải quên đi kinh nghiệm
    và trí thông minh, để trở lại trạng thái ‘sơ sinh và con nít’, và đừng sử dụng
    quá nhiều chất xám để phân tích, lý luận, dịch thuật!





    Và đây là bí quyết
    để Nghe:

    A. Nghe thụ động:

    1. - ‘Tắm’ ngôn ngữ. Nghe không cần hiểu: Hãy nghe! Đừng hiểu.
    Bạn chép vào CD một số bài tiếng Anh (vì dụ từ trên forum này). Mỗi bài có thể
    dài từ 1 đến 5 phút.

    Khi nào bạn ở nhà một mình, thì mở các bài đó ra vừa đủ nghe, và cứ lặp đi lặp lại
    mãi ra rả như âm thanh nền suốt ngày. Bạn không cần để ý đến nó. Bạn cứ làm
    việc của mình, đánh răng, rửa mặt, học bài làm bài, vào internet… với tiếng lải
    nhải của bài tiếng Anh. (thậm chí, trong lúc bạn ngủ cũng có thể để cho nó
    nói).

    Trường hợp bạn có CD player, USB player hay iPod, thì đem theo để mở nghe khi
    mình có thời gian chết - ví dụ: di chuyển lâu giờ trên xe, đợi ai hay đợi đến
    phiên mình tại phòng mạch.

    Công việc ‘tắm ngôn ngữ’ này rất quan trọng, vì cho ta nghe đúng với từng âm
    của một ngôn ngữ lạ. Tai của chúng ta bắt rất nhanh một âm quen, nhưng loại trừ
    những âm lạ. Ví dụ: Nếu bạn nghe câu: ‘mặt trời mọc cánh khi chim voi truy cập
    chén chó’, một câu hoàn toàn vô nghĩa, nhưng bảo bạn lặp lại thì bạn lặp lại
    được ngay, vì bạn đã quá quen với các âm ấy. Nhưng khi một người nói một câu
    bằng chừng ấy âm (nghĩa là 11 âm/vần), trong ngôn ngữ bạn chưa từng học, và bảo
    bạn lặp lại thì bạn không thể nào lặp lại được, và bảo rằng… không nghe được!
    (Bạn có điếc đâu! Vấn đề là tai bạn không nhận ra được các âm!) Lối 'tắm ngôn
    ngữ' đó chỉ là vấn đề làm quen đôi tai, và sau một thời gian (lâu đấy chứ không
    phải vài ngày) bạn sẽ bắt được các âm của tiếng Anh, và thấy rằng âm ấy rất dễ
    nghe, nhưng hoàn toàn khác với âm Việt. Đừng nản lòng vì lâu ngày mình vẫn
    không phân biệt âm: hãy nhớ rằng bạn đã tắm ngôn ngữ tiếng Việt ít ra là 9
    tháng liên tục ngày đêm trước khi mở miệng nói được tiếng nói đầu tiên và hiểu
    được một hai tiếng ngắn của cha mẹ; và sau đó lại tiếp tục 'tắm ngôn ngữ' Việt
    cho đến 4, 5 năm nữa!

    2 - Nghe với hình ảnh động.
    Nếu có giờ thì xem một số tin tức bằng tiếng Anh (một điều khuyên tránh: đừng
    xem chương trình tiếng Anh của các đài Việt Nam, ít ra là giai đoạn đầu, vì
    xướng ngôn viên Việt Nam, phần lớn, nói rất gần với âm Việt Nam (kể cả
    pronunciation), nên mình dễ quen nghe, và từ đó lỗ tai mình lại hỏng, về sau
    lại khó nghe người bản xứ nói tiếng Anh - thế là phải học lại lần thứ hai!).
    Các hình ảnh đính kèm làm cho ta ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung bản tin, mà
    không cần phải ‘dịch’ từng câu của những gì xướng ngôn viên nói. Bạn sẽ yên tâm
    hơn, sau khi nghe 15 phút tin tức, tự tóm lược lại, thì thấy rằng mình đã nắm
    bắt được phần chính yếu của nội dung bản tin. Và đây là cách thứ hai để tắm
    ngôn ngữ.

    B. Nghe chủ động.

    1. Bản tin special english:
    - Thu một bản tin, và nghe lại rồi chép ra nhiều chừng nào hay chừng nấy… nhớ
    là đừng tra cứu tự điển hay tìm hiểu nghĩa vội. Đoán nghĩa trong nội dung câu,
    và nhớ lại âm thanh của từ, hay cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu trở
    đi trở lại hoài.

    (Ngày xưa, trên đài VOA, sau mỗi chương trình tôi thường nghe một cụm từ tương
    tự như: statue, statute hay statu gì đó, mà không biết viết thế nào, tuy vẫn
    hiểu đại loại là: hãy đợi đấy để nghe tiếp. Mãi sau này tôi mới biết rằng thuật
    ngữ rất quen thuộc ấy là 'stay tuned', nhưng một thời gian dài, chính tả của
    chữ ấy đối với tôi không thành vấn đề!)

    2. Chăm chú nghe lại một số bài mình từng nghe trong giai đoạn ‘tắm ngôn ngữ’
    - Lấy lại script của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại trong tưởng
    tượng lời đọc mà mình từng nghe nhiều lần.

    Sau đó xếp bản script và nghe lại để hiểu. Lần này: tự nhiên mình sẽ nghe rõ
    từng tiếng và hiểu. Trường hợp không hiểu một từ hay cụm từ, thì gắng lặp lại
    nhiều lần đúng như mình đã nghe, sau đó lật lại script để so sánh.

    3. Một số bài Audio trong Forum này: nghe nhiều lần, trước khi đọc script. Sau
    đó, đọc lại script, chủ yếu kiểm tra những từ mình đã nghe hoặc đoán, hoặc
    những từ mà mình có thể phát âm lại nhưng không hiểu viết và nghĩa thế nào. Qua
    việc này, nhiều khi ta phát hiện rằng một từ mình rất quen thuộc mà từ xưa đến
    nay mình cứ in trí là phải nói một cách nào đó, thì thực ra cần phải nói khác
    hẳn và phát âm như thế thì mới mong nghe đúng và nói cho người khác hiểu. Sau
    đó, xếp bản script và nghe lại một hai lần nữa. (Ví dụ: hai chữ tomb, bury, khi
    xưa tôi cứ đinh ninh là sẽ phát âm là 'tôm-b(ơ), bơri' - sau này nghe chữ 'tum,
    beri' tôi chẳng hiểu gì cả - dù cho tôi nghe rõ ràng là tum, beri -cho đến khi
    xem script thì mới vỡ lẽ!)

    4. Học hát tiếng Anh, và hát theo trong khi nghe.
    Chọn một số bài hát mà mình thích, tìm lyrics của nó rồi vừa nghe vừa nhìn
    lyrics. Sau đó học thuộc lòng và hát song song với ca sĩ, và gắng phát âm cũng
    như giữ tốc độ và trường độ cho đúng. Khi nào buồn buồn cũng có thể tự hát cho
    mình nghe (nếu không có giọng tốt và hát sai giọng một tí cũng không sao, vì
    chủ yếu là tập phát âm, tốc độ, trường độ và âm điệu tiếng Anh).

    Và nói cho đúng giọng (qua hát) cũng là một cách giúp mình sau này nhạy tai hơn
    khi nghe, vì thường thường ngôn ngữ trong các bài hát khó nghe hơn những câu
    nói bình thường rất nhiều.


    Có bạn bảo rằng hiện nay mình chưa hiểu, nên cố gắng
    nghe nhiều cũng vô ích, để mình học thêm, khi nào có nhiều từ vựng để hiểu rồi
    thì lúc đó sẽ tập nghe sau.


    Nghĩ như thế là HOÀN TOÀN SAI. Chính
    vì bạn chưa hiểu nên mới cần nghe nhiều hơn những người đã hiểu. Muốn biết bơi
    thì phải nhảy xuống nước, không thể lấy lý do rằng vì mình không thể nổi nên ở
    trên bờ học cho hết lý thuyết rồi thì mới nhảy xuống, và sẽ biết bơi! Chưa biết
    bơi mà xuống nước thì sẽ uống nước và ngộp thở đấy, nhưng phải thông qua uống
    nước và ngộp thở như thế thì mới hy vọng biết bơi.


    Muốn biết bơi, thì phải nhảy xuống
    nước, và nhảy khi chưa biết bơi. Chính vì chưa biết bơi nên mới cần nhảy xuống
    nước.


    Muốn biết nghe và hiểu tiếng Anh thì
    phải nghe tiếng Anh, nghe khi chưa hiểu gì cả! Và chính vì chưa hiểu gì nên cần
    phải nghe nhiều



    NGHE BẰNG TAI

    Khi tôi bảo rằng chúng ta gặp trở
    ngại khi học ngoại ngữ vì thông minh và có nhiều kinh nghiệm, có người cho rằng
    đó là nói theo nghĩa bóng. Không phải đâu, tôi nói theo nghĩa đen đó! Qua sự
    kiện sau (và ACE chắc chắn cũng từng gặp những trường hợp tương tự) ACE sẽ thấy
    ngay. Một người bạn từng dạy Anh Văn ở Trung Tâm Ngoại Ngữ với tôi, sau này
    sang định cư ở Mỹ. Anh cùng đi với đứa con 7 tuổi, chưa biết một chữ tiếng Anh
    nào. Mươi năm sau tôi gặp lại hai cha con tại Hoa Kỳ. Con anh nói và nghe tiếng
    Anh không khác một người Mỹ chính cống. Trong khi đó anh nói tiếng Anh tuy lưu
    loát hơn xưa, nhưng rõ ràng là một người nước ngoài nói tiếng Mỹ. Khi xem
    chương trình hài trên TV, con anh cười đúng với tiếng cười nền trong chương
    trình, trong khi đó anh và tôi nhiều khi không hiểu họ nói gì đáng cười: rõ
    ràng là kỹ năng nghe của con anh hơn anh rồi! Điều này chứng tỏ rằng khi sang
    Mỹ, anh đã có kinh nghiệm về tiếng Anh, và ‘khôn’ hơn con anh vì biết nhiều kỹ
    thuật, phương pháp học tiếng Anh, nên tiếp tục học tiếng Anh theo tiến trình
    phản tự nhiên; trong khi con anh, vì không ‘thông minh’ bằng anh, và thiếu kinh
    nghiệm, nên đã học tiếng Anh theo tiến trình tự nhiên mà không theo một phương
    pháp cụ thế nào để học vocabulary, grammar, listening, speaking cả.


    Đi vào cụ thể từ vựng Anh.

    Muốn nâng cao kỹ năng nghe, cần phải
    xóa bỏ cái phản xạ lâu ngày của mình do kinh nghiệm trong tiếng mẹ đẻ, và những
    khả năng mình đã có khi khởi sự học ngoại ngữ, ấy là mình đã biết đọc và biết
    viết chữ theo mẫu tự la tinh. Công việc xóa bỏ cái phản xạ sai này là một việc
    mất thì giờ, vì tập một phản xạ mới đã là khó, mà xóa đi một phản xạ cũ lại
    càng khó hơn nữa. Các bạn đọc bài này để tin vào tiến trình tự nhiên, chứ không
    phải để nhớ những phân tích ‘tào lao’ này, khiến lại bị trở ngại thêm trong quá
    trình nâng cao kỹ năng của mình).


    - Xóa bỏ kinh nghiệm nghe nguyên
    âm: Tiếng Anh là tiếng phụ âm.


    Tiếng Anh chủ yếu là ngôn ngữ đa âm:
    một từ thường có nhiều âm. Lỗ tai chúng ta đã ‘bị điều kiện hóa’ để nghe âm
    tiếng Việt. Tiếng Việt là loại tiếng đơn âm, vì thế, mỗi tiếng là một âm và âm
    chủ yếu trong một từ là nguyên âm. Đổi một nguyên âm thì không còn là từ đó
    nữa: ‘ma, mi, mơ’ không thể hoán chuyển nguyên âm cho nhau, vì ba từ có ba
    nghĩa hoàn toàn khác nhau. Mặc khác, tiếng Việt không bao giờ có phụ âm cuối
    từ. Ngay cả những chữ mà khi viết có phụ âm cuối, thì người việt cũng không đọc
    phụ âm cuối; ví dụ: trong từ ‘hát’, nguyên âm mới là ‘át’, h(ờ)-át, chứ không
    phải là h(ờ)-á-t(ơ), trong khi đó từ ‘fat’ tiếng Anh được đọc là f(ờ)-a-t(ờ),
    với phụ âm ‘t’ rõ ràng.


    Trong tiếng Việt hầu như không có
    những từ với hai phụ âm đi kế tiếp (ngoài trừ ch và tr - nhưng thực ra, ch và
    tr cũng có thể thay bằng 1 phụ âm duy nhất) vì thế, tai của một người Việt Nam
    = chưa bao giờ làm quen với ngoại ngữ - không thể nhận ra hai phụ âm kế tiếp.
    Do đó, muốn cho người Việt nghe được một tiếng nước ngoài có nhiều phụ âm kế
    tiếp, thì phải thêm nguyên âm (ơ) vào giữa các phụ âm; ví dụ: Ai-xơ-len;
    Mat-xơ-cơ-va. Nói cách khác, người Việt không thể nghe được phụ âm nếu không có
    một nguyên âm cụ thể đính kèm.


    Với kinh nghiệm (phản xạ) đó, một
    khi ta nghe tiếng Anh, ta chờ đợi nghe cho đủ các nguyên âm như mình NHÌN thấy
    trong ký âm (phonetic signs), và không bao giờ nghe được cả. Ví dụ: khi học từ America ta thấy
    rõ ràng trong ký âm: (xin lỗi vì không thể ghi phonetic signs vào trang này)
    ‘ơ-me-ri-kơ’, nhưng không bao giờ nghe đủ bốn âm cả, thế là ta cho rằng họ
    ‘nuốt chữ’. Trong thực tế, họ đọc đủ cả, nhưng trong một từ đa âm (trong khi
    viết) thì chỉ đọc đúng nguyên âm ở dấu nhấn (stress) - nếu một từ có quá nhiều
    âm thì thêm một âm có dấu nhấn phụ (mà cũng có thể bỏ qua) - còn những âm khác
    thì phải đọc hết các PHỤ ÂM, còn nguyên âm thì sao cũng đưọc (mục đích là làm
    rõ phụ âm). Có thể chúng ta chỉ nghe: _me-r-k, hay cao lắm là _me-rơ-k, và như
    thế là đủ, vì âm ‘me’ và tất cả các phụ âm đều hiện diện. Bạn sẽ thắc mắc, nghe
    vậy thì làm sao hiểu? Thế trong tiếng Việt khi nghe ‘Mỹ’ (hết) không có gì
    trước và sau cả, thì bạn hiểu ngay, tại sao cần phải đủ bốn âm là ơ-mê-ri-kơ
    bạn mới hiểu đó là ‘Mỹ’? Tóm lại: hãy nghe phụ âm, đừng chú ý đến nguyên âm,
    trừ âm có stress!


    Một ví dụ khác: từ interesting! Tôi
    từng được hỏi, từ này phải đọc là in-tơ-res-ting hay in-tơ-ris-ting mới đúng?
    Chẳng cái nào đúng, chẳng cái nào sai cả. Nhưng lối đặt vấn đề sai! Từ này chủ
    yếu là nói ‘in’ cho thật rõ (stress) rồi sau đó đọc cho đủ các phụ âm là người
    ta hiểu, vì người bản xứ chỉ nghe các phụ âm chứ không nghe các nguyên âm kia;
    nghĩa là họ nghe: in-trstng; và để rõ các phụ âm kế tiếp thì họ có thể nói
    in-tr(i)st(i)ng; in - tr(ơ)st(ơ)ng; in-tr(e)st(ư)ng. Mà các âm (i)(ơ), để làm
    rõ các phụ âm, thì rất nhỏ và nhanh đến độ không rõ là âm gì nữa. Trái lại, nếu
    đọc to và rõ in-tris-ting, thì người ta lại không hiểu vì dấu nhấn lại sang
    'tris'!


    Từ đó, khi ta phát âm tiếng Anh (nói
    và nghe là hai phần gắn liền nhau - khi nói ta phát âm sai, thì khi nghe ta sẽ
    nghe sai!) thì điều tối quan trọng là phụ âm, nhất là phụ âm cuối. Lấy lại ví
    dụ trước: các từ fire, fight, five, file phải được đọc lần lượt là fai- (ơ)r;
    fai-t(ơ); fai-v(ơ), và fai- (ơ)l, thì người ta mới hiểu, còn đọc 'fai' thôi thì
    không ai hiểu cả.


    Với từ ‘girl’ chẳng hạn, thà rằng
    bạn đọc gơ-rôl / gơ-rơl (dĩ nhiên chỉ nhấn gơ thôi), sai hẳn với ký âm, thì
    người ta hiểu ngay, vì có đủ r và l, trong khi đó đọc đúng ký âm là ‘gơ:l’ hay
    bỏ mất l (gơ) thì họ hoàn toàn không hiểu bạn nói gì; mà có hiểu chăng nữa, thì
    cũng do context của câu chứ không phải là do bạn đã nói ra từ đó.






    Xóa bỏ kinh
    nghiệm nghe âm Việt.


    Các nguyên âm Việt và Anh không hề giống nhau. Một âm rất rõ trong tiếng Anh sẽ
    rất nhoè với một lỗ tai người Việt, và một âm rất rõ trong tiếng Việt thì rất
    nhoè trong lỗ tai người Anh (người bản xứ nói tiếng Anh). Ví dụ: Khi bạn nói:
    “Her name’s Hương!” Bạn đọc từ Hương thật rõ! Thậm chí la lên thật to và nói
    thật chậm thì người ấy vẫn không nghe ra. Vì ‘ươ’ đối với họ là âm rất nhoè.
    Nhưng nói là ‘Hu-ôn-gh(ơ)’ họ nghe rõ ngay; từ đó ta phải hiểu họ khi nói đến
    cô Huôngh chứ đừng đòi hỏi họ nói tên Hương như người Việt (phải mất vài năm!).

    Tương tư như vậy, không có nguyên âm tiếng Anh nào giống như nguyên âm tiếng
    Việt. Nếu ta đồng hóa để cho dễ mình, là ta sẽ không nghe được họ nói, vì thế
    giới này không quan tâm gì đến cách nghe của người Việt Nam đối với
    ngôn ngữ của họ. Ví dụ: âm ‘a’ trong ‘man’ thì không phải là ‘a’ hay ‘ê’ hay
    ‘a-ê’ hay ‘ê-a’ tiếng Việt, mà là một âm khác hẳn, không hề có trong tiếng
    Việt. Phải nghe hàng trăm lần, ngàn lần, thậm chí hàng chục ngàn lần mới nghe
    đúng âm đó, và rất rõ! Ấy là chưa nói âm ‘a’ trong từ này, được phát âm khác
    nhau, giữa một cư dân London, Scotland, Boston, Missouri, Texas!

    Cũng thế, âm ‘o’ trong ‘go’ không phải là ‘ô’ Việt Nam, cũng chẳng phải là ô-u
    (như cách phiên âm xưa) hay ơ-u (như cách phiên âm hiện nay), lại càng không
    phài là ‘âu’, mà là một âm khác hẳn tiếng Việt. Phát âm là ‘gô’, ‘gơu’ hay
    ‘gâu’ là nhoè hẳn, và do đó những từ dễ như ‘go’ cũng là vấn đề đối với chúng
    ta khi nó được nói trong một câu dài, nếu ta không tập nghe âm ‘ô’ của tiếng
    Anh đúng như họ nói. Một âm nhoè thì không có vấn đề gì, nhưng khi phải nghe
    một đoạn dài không ngưng nghỉ thì ta sẽ bị rối ngay.

    Đây cũng là do một kinh nghiệm tai hại xuất phát từ việc tiếp thu kiến thức.
    Trong quá trình học các âm tiếng Anh, nhiều khi giáo viên dùng âm Việt để so
    sánh cho dễ hiểu, rồi mình cứ xem đó là ‘chân lý’ để không thèm nghĩ đến nữa.
    Ví dụ, muốn phân biệt âm (i) trong sheep và ship, thì giáo viên nói rằng I
    trong sheep là ‘I dài’ tương tự như I trong tiếng Bắc: ít; còn I trong ship là
    I ngắn, tương tự như I trong tiếng Nam: ít - ích. Thế là ta cho rằng
    mình đã nghe được I dài và I ngắn trong tiếng Anh rồi, nhưng thực chất là chưa
    bao giờ nghe cả! Lối so sánh ấy đã tạo cho chúng ta có một ý niệm sai lầm; thay
    vì xem đấy là một chỉ dẫn để mình nghe cho đúng âm, thì mình lại tiếp thu một
    điều sai! Trong tiếng Anh không có âm nào giống âm I bắc hoặc I nam cả! Bằng
    chứng: ‘eat’ trong tiếng Anh thì hoàn toàn không phải là ‘ít’ trong tiếng Việt,
    đọc theo giọng bắc, và ‘it’ trong tiếng Anh hoàn toàn không phải là ‘ít’ trong
    tiếng Việt, đọc theo giọng nam! Vì thế, phải xóa bỏ những kinh nghiệm loại này,
    và phải nghe trực tiếp thôi!

    - Xóa bỏ kinh nghiệm nghe bằng chữ viết.

    Nếu ta hỏi một em bé: cháu nghe bằng gì? Thì nó sẽ trả lời: Nghe bằng tai! Nếu
    ta bảo: “Cháu phải nghe bằng mắt cơ!” Chắc em bé tưởng ta … trêu em! Thế nhưng
    điều xảy ra cho nhiều người học tiếng nước ngoài là Nghe Bằng Mắt!

    Thử nhìn lại xem. Trong giai đoạn đầu tiếp xúc với tiếng Anh, khi ta nghe một
    người nói: “I want a cup of coffee!”. Tức tốc, chúng ta thấy xuất hiện câu ấy
    dưới dạng chữ Viết trong trí mình, sau đó mình dịch câu ấy ra tiếng Việt, và ta
    HIỂU! Ta Nghe bằng MẮT, nếu câu ấy không xuất hiện bằng chữ viết trong đầu ta,
    ta không Thấy nó, thì ta … Điếc!

    Sau này, khi ta có trình độ cao hơn, thì ta hiểu ngay lập tức chứ không cần
    phải suy nghĩ lâu. Thế nhưng tiến trình cũng chẳng khác nhau bao nhiêu, ta vẫn
    còn thấy chữ xuất hiện và dịch, cái khác biệt ấy là ta viết và dịch rất nhanh,
    nhưng từ một âm thanh phát ra cho đến khi ta
    hiểu thì cũng thông qua ba bước: viết, dịch, hiểu.
    Khi ta đi đến một trình độ nào đó, thì
    trong giao tiếp không có vấn đề gì cả, vì các câu rất ngắn, và ba bước đó được
    'process' rất nhanh nên ta không bị trở ngại, nhưng khi ta nghe một bài dài,
    thì sẽ lòi ra ngay, vì sau hai, ba, bốn câu liên tục 'processor' trong đầu ta
    không còn đủ thì giờ để làm ba công việc đó. Trong lúc nếu một người nói bằng
    tiếng Việt thì ta nghe và hiểu ngay, không phải viết và dịch (tại vì ngày xưa
    khi ta học tiếng Việt thì quá trình là nghe thì hiểu ngay, chứ không thông qua
    viết và dịch, vả lại, nếu muốn dịch, thì dịch ra ngôn ngữ nào?), và người nói
    có nhanh cách mấy thì cũng không thể nào vượt cái khả năng duy nhất của chúng
    ta là 'nghe bằng tai'.

    Vì thế, một số sinh viên cảm thấy rằng mình tập nghe, và đã nghe được, nhưng
    nghe một vài câu thì phải bấm ‘stop’ để một thời gian chết - như computer ngưng
    mọi sự lại một tí để process khi nhận quá nhiều lệnh - rồi sau đó nghe tiếp;
    nhưng nếu nghe một diễn giả nói liên tục thì sau vài phút sẽ ‘điếc’. Từ đó,
    người sinh viên nói rằng mình ‘đã tới trần rồi, không thể nào tiến xa hơn nữa!
    Vì thế giới này không stop cho ta có giờ hiểu kịp’!’(1)

    Từ những nhận xét trên, một trong việc phải làm để nâng cao kỹ năng nghe, ấy
    xóa bỏ kinh nghiệm Nghe bằng Mắt, mà trở lại giai đoạn Nghe bằng Tai, (hầu hết
    các du học sinh ở nước ngoài, sau khi làm chủ một ngoại ngữ rồi từ trong nước,
    đều thấy ‘đau đớn và nhiêu khê’ lắm khi buộc phải bỏ thói quen nghe bằng mắt để
    trở lại với trạng thái tự nhiên là nghe bằng tai! Có người mất cả 6 tháng cho
    đến 1 năm mới tàm tạm vượt qua).

    - Xóa bỏ kinh nghiệm nghe bằng cấu trúc văn phạm.

    Khi nghe ai nói, ta viết một câu vào đầu, và sửa cho đúng văn phạm, rồi mới
    dịch, và sau đó mới hiểu! Ví dụ. Ta nghe ‘iwanago’ thì viết trong đầu là ‘I
    want to go’, xong rồi mới dịch và hiểu; nếu chưa viết được như thế, thì iwanago
    là một âm thanh vô nghĩa.

    Thế nhưng, nếu ta nghe lần đầu tiên một người nói một câu hằng ngày: igotago,
    ta không thể nào viết được thành câu được, và vì thế ta không hiểu. Bời vì thực
    tế, câu này hoàn toàn sai văn phạm. Một câu đúng văn phạm phải là ‘I am going
    to go’ hoặc chí ít là ‘I have got to go’. Và như thế, đúng ra thì người nói, dù
    có nói tốc độ, cũng phải nói hoặc: I'm gona go; hoặc I’ve gota go (tiếng Anh
    không thể bỏ phụ âm), chứ không thể là I gotta go! Thế nhưng trong thực tế cuộc
    sống người ta nói như thế, và hiểu rõ ràng, bất chấp mọi luật văn phạm. Văn
    phạm xuất phát từ ngôn ngữ sống, chứ không phải ngôn ngữ sống dựa trên luật văn
    phạm. Vì thế ta cũng phải biết nghe mà hiểu; còn cứ đem văn phạm ra mà tra thì ta
    sẽ khựng mãi. (Tôi đang nói về kỹ năng nghe, còn làm sao viết một bài cho người
    khác đọc thì lại là vấn đề khác!)

    Tóm lại, trong phần chia sẻ
    này, tôi chỉ muốn nhắc với ACE rằng, hãy NGHE ĐIỀU NGƯỜI TA NÓI, CHỨ ĐỪNG NGHE
    ĐIỂU MÌNH MUỐN NGHE, và muốn được như vậy, thì HÃY NGHE BẰNG TAI, ĐỪNG NGHE
    BẰNG MẮT!






    Nghe tiếng anh
    và nghe tiếng anh.

    Hai bài trước đây, tôi nói về việc nghe ‘âm thanh’ của tiếng Anh, có nghĩa là
    làm sao phân biệt được các âm với nhau đến nỗi, dù không hiểu câu ấy nói gì,
    cũng có thể lặp lại đúng lời người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của
    mình càng cao). Dĩ nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên phú nên
    phân biệt âm thanh rất nhanh. Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North Carolina (tên Việt Nam là Võ thị Ngọc Diễm). Năm nay
    em mới 8 tuổi mà đã nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản nhạc. Em có khả năng
    lặp lại một câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà không cần hiểu
    nghĩa. Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian để phân biệt
    các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có khả năng này,
    bằng chứng là không một người nào trên trái đất (trừ người điếc) là không thể
    nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

    Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến nay,
    hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay cụm từ mình nghe rõ ràng
    hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ riêng (của các nhân vật, các
    địa danh … ), và những từ mình đã quen thuộc. Có những đoạn bạn nghe một thời
    gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung
    chương trình đó.

    Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe một ngôn
    ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình nghe nhạc (không lời),
    hay nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như thế thì không đáng bỏ công, vì
    ngôn ngữ cốt là để truyền tin (truyền một thông tin). Nếu ta không nắm được
    thông tin bên dưới âm thanh phát ra bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không
    ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì thế, điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe
    tiếng Anh (như một âm thanh thuần túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình
    thường người học ngoại ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo
    nghĩa là ‘hiểu’ một thông tin.

    Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi sâu hơn,
    ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của thông tin qua một
    chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.

    Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh

    1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.
    Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một
    diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi dần
    dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau (nếu
    cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông dụng và,
    trong giai đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều
    lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu sau:

    - To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.
    - The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.
    - The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very
    high pressure into the tiny double reed.

    Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên
    bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một cách tổng
    quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng không
    phải là trong thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must force
    air’ thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không phải là
    nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải viết thế
    nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):
    The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!
    Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà
    ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần
    phải tra từ điển!)

    Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được
    tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu bạn học
    theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ viết, bạn sẽ
    tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã hiểu! Nhưng thực
    ra, nếu bạn không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong
    kiến thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ
    về một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là phải trở
    lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi, nightingale là một loại chim có
    tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa
    mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi chưa bao giờ thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa
    mi’. Thậm chí không biết là có phải một loài chim hay hai loài chim khác nhau,
    vì cả hai từ đều được dịch là nightingale.

    2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.
    Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai.
    - Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ tiêu cực’
    phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ ràng
    thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô nghĩa! Nói cách khác:
    khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng khi
    người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh không thể hiểu là ‘negative.’

    - Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt vào
    trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh hay ở
    Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là bắp!

    Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì ta hiểu
    ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol hay
    gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!

    Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu đúng.
    Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000 dầu! Tôi cam đoan là
    người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ không đổ DẦU vào xe bạn; cao
    lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn
    nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu
    một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó.






    3. Nghe với
    tất cả giai điệu của câu.


    Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt được
    thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ là truyền
    tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan
    trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một câu nói giao tiếp
    hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy tình cảm con người,
    chứ không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao
    độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có
    thể là điều mình cần phải ‘nghe’ cùng một lúc với các âm thanh được phát ra,
    thậm chí nghe âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì
    cả. Đừng tưởng rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét!
    Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc
    nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi
    căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh
    làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!

    Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:
    I didn’t say Paul stole my watch!
    Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I
    - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn:
    I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)
    I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)
    I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn't
    SAY) v.v

    Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và nói) đúng cao
    độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng
    Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn
    giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng
    tai nên người Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt
    chúng rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm
    điệu để nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói.

    Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành
    ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các
    câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You're joking/kidding!
    Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một
    tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận
    hay từ chối!

    Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không chỉ
    đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn, bạn
    chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you
    please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào đó
    khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu
    cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit
    down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười
    nồng hậu, thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái
    độ căng thẳng và giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều.

    4. Nghe với những gì một từ bao hàm.
    Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi danh
    từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình cảm
    (connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có
    một denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn
    toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a
    woman, a girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một đảng
    viên đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu
    dàng cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều
    xấu xa, độc ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm
    ngàn thuyết thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ
    định triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a communist!' có
    thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy theo
    connotation của nó.


    Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng nghĩa
    (synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ tương đương
    trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế mà không bao
    giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: father/mother
    không hoàn toàn là cha/mẹ - và daddy/mummy không hoàn toàn là ba/má; vì tình
    cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt và người Anh).
    "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong các
    thuật ngữ mình nghe.

    Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe
    để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe tin
    tức mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của các
    chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được
    dùng từ kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm của
    mình, vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một
    phần khá chủ yếu trong tiếng Anh.

    (Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình
    trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là xướng ngôn viên vui
    mừng hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin mình đọc. Còn
    người viết bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ trước kia, khi nói
    đến một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên Kennedy’ hoặc ‘tên tổng thống
    Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung
    lập: Tổng Thống G. Bush. Trong khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một bản
    tin: ‘Cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’
    mặc nhiện tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch
    Hồ Chí Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất kính,
    xem thường’ đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!)

    5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm.
    Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể
    phối hợp tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn ngữ giao
    tiếp; và điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái
    gì đó vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt
    nào, dù thích hay không thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn
    nâng cao kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho
    đến nay, khó tìm những bài thơ audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe
    đọc thơ, dần dần, chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm
    được vì sao cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy
    giờ ta mới có quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh.

    Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu đã sử dụng
    âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”:
    Những luồng run rẩy rung rinh lá


    Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind
    I saw you toss the kites on high
    And blow the birds about the sky;
    And all around I heard you pass,
    Like ladies’ skirts across the grass..
    Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’ nối tiếp
    và quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy các mệnh phụ
    lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm, vì mọi
    nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài).

    Kết luận:

    Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’ tiếng Anh. Tuy
    nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và không có lý thuyết
    nào có thế làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất ấy là bạn phải tự
    mình nghe và rút ra những phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở
    thích của mình.

    Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch. Thế nhưng,
    những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì những thứ ấy
    không cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy
    việc đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết thành câu và tra từ điển - như vẫn
    làm từ trước đến nay - giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng
    phương pháp của mình. Tôi chỉ nhắc lại một điều này:

    Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập bơi. Khi tập
    bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống
    nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi sự như thế. Bạn cũng vậy,
    có thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn script - học từ - kiểm tra văn
    phạm) giúp bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng:
    Chiếc phao giúp cho bạn nổi, nhưng không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai
    đoạn nào đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái.

    Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở thành một trở
    ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa.
    Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu không
    chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự 'nghe' được tiếng Anh!
    dinhtuan2187
    dinhtuan2187
    Chuẩn úy
    Chuẩn úy


    Tổng số bài gửi : 106
    Reputation : 2
    Join date : 21/12/2010
    Age : 37
    Đến từ : ha noi

    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh Empty Re: Luyện kỹ năng nghe tiếng anh

    Bài gửi by dinhtuan2187 Sun Jan 02, 2011 12:33 am

    bạn thật la chăm chỉ.heheh
    buon_2188
    buon_2188
    Thiếu úy
    Thiếu úy


    Tổng số bài gửi : 202
    Reputation : 4
    Join date : 26/12/2010

    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh Empty gê thật

    Bài gửi by buon_2188 Sun Jan 02, 2011 9:02 am

    Bạn gê thật...mình lười kinh khủng.Hnao cho ae ít chăm chỉ nha,hì
    whatistruelove
    whatistruelove
    Trung sỹ
    Trung sỹ


    Tổng số bài gửi : 38
    Reputation : 0
    Join date : 28/12/2010

    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh Empty Re: Luyện kỹ năng nghe tiếng anh

    Bài gửi by whatistruelove Sun Jan 02, 2011 9:27 pm

    Rất cảm ơn vì đã chia sẻ kinh nghiệm của bạn. Coslex từ đây mình cũng hiểu vì sao mình học mười mấy năm mà không nghe nói được Tiếng Anh.Một phần là mình lười,nhưng một phần là mình học không đúng phương pháp, một phần lại là thầy cô giáo dạy sai. Thử hỏi rằng những năm cấp hai thì thầy cô dạy chúng ta sao ? Đến phát âm còn sai thì sao học sinh nói đúng. Hậu quả là chúng ta chịu.
    Kinh nghiệm trên thật là đúng đắn.Một lần nữa cảm ơn rất nhiều tác giả.

    Sponsored content


    Luyện kỹ năng nghe tiếng anh Empty Re: Luyện kỹ năng nghe tiếng anh

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sun May 19, 2024 6:12 pm